Người cựu chiến binh và hành trình gìn giữ nhịp cầu hữu nghị Việt Nam – Campuchia
Gần nửa thế kỷ trôi qua kể từ ngày đặt chân đến chiến trường Campuchia, người cựu chiến binh Trần Quang Du vẫn chưa từng dừng bước trên hành trình gìn giữ và bồi đắp tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt Nam Campuchia. Từ người lính làm nhiệm vụ quốc tế đến người thầy dạy tiếng Khmer, ông đã chọn gắn bó cả đời mình với hành trình “gieo con chữ” và hơn cả là vun đắp “tình bạn không biên giới”.

Trong cơn mưa rào của một chiều tháng bảy, chúng tôi tìm đến căn nhà của Thượng tá Trần Quang Du – cựu chiến binh Công an nhân dân vũ trang (tiền thân của lực lượng Bộ đội Biên phòng ngày nay). Căn phòng khách nhỏ nằm nép mình trong con hẻm tại quận Gò Vấp cũ (nay là phường Hạnh Thông – TP. HCM), sáng bừng bởi những tấm bằng khen và những bức ảnh đã nhuốm màu thời gian, được lồng khung, bảo quản cẩn thận, như đang lưu giữ ký ức củamột thời máu lửa kiên hùng.
Ông Du đón chúng tôi bằng nụ cười hiền và cái bắt tay chắc nịch, mang đậm nét đặc trưng của người lính từng đi qua khói lửa chiến tranh. Bên ấm trà nghi ngút khói, ông chậm rãi rót mời chén đầu tiên, như thể đang chắt ra từng lát cắt ký ức của cuộc đời mình.
“Chú từng chiến đấu ở chiến trường Campuchia bao lâu thế ạ?”,tôi mở lời.
Ông Du cười nhẹ: “Mười năm, trọn những năm tháng tuổi trẻ”.
Rồi, như được chạm vào một vùng hồi ức đã lâu không lậtmở, giọng ông trầm lại, đưa chúng tôi sống lại những tháng ngày không thể nào quên của người lính trẻ Trần Quang Du khi ấy.
Một lời kêu gọi, một tuổi trẻ lên đường

Cuối những năm 1970, những toán lính Pol Pot liên tiếp mở các cuộc hành quân lớn xâm phạm biên giới phía Tây Nam của Việt Nam, gây ra nhiều tội ác dã man đối với nhân dân ta. Trong ký ức ông Du, đất nước Campuchia lúc đó như một nhà tù khổng lồ, nơi những người Khmer bị đẩy vào vòng xoáy nội chiến.
Chàng thanh niên trẻ Trần Quang Du khi ấy vừa rời ghế nhà trường, nghe tin tuyển quân lên biên giới đã viết đơn tình nguyện tham gia chiến đấu. Tháng 9/1978, ông nhập ngũ vào lực lượng Công an nhân dân vũ trang. Từ Chương Mỹ (Hà Tây cũ – nay là Hà Nội), ông được huấn luyện cấp tốc và ngay sau đó được điều chiến trường tại huyện Bảy Núi (An Giang). Đầu năm 1979, ông sang chiến trường Campuchia làm nhiệm vụ quốc tế, sát cánh cùng quân và dân nước bạn chống lại chế độ diệt chủng Pol Pot.
Một ba lô, hai sinh mạng và nước mắt người lính

Nơi chiến trường đầy bom đạn, có những khoảnh khắc dù qua bao năm tháng vẫn ám ảnh mãi trong tâm trí người lính. Giọng nói ông Du nghẹn lại khi kể với chúng tôi về lần mở cửa biên giới trên núi Dângrêk (thuộc địa phận tỉnh Preah Vihear, Campuchia) cho nhóm đặc
công làm nhiệm vụ ở Thái Lan. Khi trở về chỉ còn duy nhất một người sống sót.
“Anh bạn chiến đấu của tôi lặng lẽ bước vào trạm gác, gầy gò, da sạm đen hết lại, cõng trên lưng cái ba lô sờn cũ. Tôi hỏi: “Còn hai đồng chí kia đâu?”. Anh ấy lặng thinh, nước mắt trào ra “Ở trong ba lô này…”. Dưới sự tàn khốc của cuộc chiến, hai người đồng đội của chúng
tôi đã hy sinh vì mìn nổ. Không còn cách nào, anh gom từng mảnh thi thể gói lại mang về. Hôm đó, cả đơn vị tôi không ai ngủ được”.

Hay lần khác, tại huyện Samraong (tỉnh Oddar Meancheay) bấy giờ, khi một toán địch giơ tay đầu hàng, bộ đội Việt Nam đã nhờ người Khmer bản xứ phiên dịch ra hiệu cho đối phương bỏ súng. Nhưng người bạn Khmer khi đó đã rút súng bắn trả, khiến một người chết, một
người bị thương. Sau đó hỏi ra, chúng tôi mới biết người phiên dịch ấy từng có gia đình bị Pol Pot thảm sát: “Chúng giết cha mẹ, giết anh em tôi, làm sao kêu hàng, làm sao tha được”.
Đó cũng là lúc ông hiểu được tầm quan trọng của việc hiểu ngôn ngữ bạn: “Từ chỗ người Việt mình sang Campuchia, anh em bộ đội không biết tiếng phải nhờ bạn, nhưng cũng chính vì không biết lại không hiểu lòng bạn, nên thay vì hòa giải lại thấy cảnh nổ súng. Nếu biết tiếng
Khmer, có khi chẳng cần viên đạn nào, người ta sẽ tự rơi súng”. Từ đó, ngoài những lúc kề vai nhau chiến đấu, người lính Trần Quang Du đã mày mò, tìm hiểu và học thêm ngôn ngữ của nước bạn, trước là để hiểu bạn, sau là để những cuộc chạm trán không còn nhuốm màu máu, mà mở ra cánh cửa của sự cảm thông, tin tưởng và hòa giải.
Gần nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng những ngày tháng kề vai sát cánh cùng quân dân Campuchia vượt qua bom đạn, đói khát và hiểm nguy vẫn khắc sâu trong tâm trí người cựu chiến binh năm ấy như một phần máu thịt không thể phai mờ.

Từ người lính đến người thầy – nối nhịp cầu gắn kết tình hữu nghị giữa hai nước

Năm 1989, saukhi hoàn thành nhiệm vụ quốc tế ở Campuchia, ông Du trở về và được bổ nhiệm chức vụ Phó chủ nhiệm Khoa ngoại ngữ – Tin học Trường Trung cấp Biên phòng 2 (Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng). Từ năm 1989 đến năm 2016, ông được giao nhiệm vụ dạy tiếng
Khmer cho bộ đội Việt Nam, đồng thời đào tạo tiếng Việt cho cán bộ Campuchia đang trong thời gian công tác tại Việt Nam. Đối với cựu chiến binh Trần Quang Du, có những mất mát không nằm trên chiến trường, có những hy sinh không đến từ súng đạn mà từ sự không thấu hiểu giữa hai dân tộc. Đó cũng chính là điều thôi thúc người lính năm xưa tiếp tục sứ mệnh “gieo con chữ”, vun đắp tình hữu nghị giữa hai nước Việt Nam – Campuchia ngày một bền vững.
Thời gian đầu, đứng trước những sự hoài nghi về tính ứng dụng của tiếng Khmer, ông Du vẫn kiên biên giới, chỉ cần sai một từ thôi sẽ thành hiểm họa. Biết tiếng bạn, hai bên sẽ thông hiểu nhau, tránh đổ máu, hiểu lầm, tinh thần đoàn kết giữa hai dân tộc cũng vì thế càng thêm bền chặt, gắn bó”.
Chính thức nhận quyết định nghỉ hưu vào năm 2016, người chiến binh năm nào vẫn luôn mong muốn cống hiến sức mình cho sự nghiệp giảng dạy. Ông tham gia vào Trung ương Hội Hữu nghị Việt Nam – Campuchia, giữ chức vụ Phó Giám đốc Trung tâm Ngoại ngữ tiếng Khmer.
Tháng 5/2021, đại dịch Covid-19 bùng phát, dù là cựu chiến binh đã ngoài 60 tuổi, ông Du tự học hỏi, cập nhật công nghệ, thay đổi hình thức từ dạy học trực tiếp sang trực tuyến để việc giảng dạy không bị ngắt quãng.. Đồng thời, người thầy ấy vẫn luôn tìm cách kết nối các học viên Campuchia tham gia tương tác, hỗ trợ các cán bộ, chiến sĩ Việt Nam. Nhờ đó, học viên vừa có cơ hội giao tiếp, luyện tập với
người bản ngữ, vừa tiết kiệm thời gian đi lại.
Là một trong những học viên tham gia lớp học của thầy Du, Trung tá Nguyễn Văn Dũng, hiện đang công tác tại Phòng chính trị Ban chỉ huy bộ đội Biên phòng tỉnh Lâm Đồng không giấu nổi niềm vui: “Lớp học của thầy là một môi trường rất tuyệt vời, bởi môi trường công tác của bộ đội biên phòng chúng tôi tương đối đặc biệt, chủ yếu trên biên giới, địa bàn khó khăn, phức tạp cho nên để học tập trung rất ít. Nhưng được học online, thầy và trung tâm rất tận tình giúp đỡ, hỗ trợ chúng tôi từ cái nhỏ nhất. Trong quá trình học, thầy cũng bố trí các đồng chí trợ giảng là người Campuchia hỗ trợ nên chúng tôi tiến bộ nhanh, nhờ đó mà phục vụ rất nhiều cho công việc trong đơn vị”.

Những đóng góp lặng thầm nhưng bền bỉ của Thượng tá Trần Quang Du trong hành trình vun đắp tình hữu nghị Việt Nam – Campuchia không chỉ được ghi nhận bằng tình cảm của đồng đội và nhân dân hai nước. Những cống hiến ấy còn được trân trọng khắc ghi qua nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương chiến công hạng nhất, Kỷ niệm chương “Vì sự nghiệp giáo dục” của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bằng khen của Trung ương Hội Hữu nghị Việt Nam – Campuchia, cùng Giấy chứng nhận phiên dịch cấp chiến dịch -chiến lược do Học viện Quốc phòng trao tặng và nhiều tặng thưởng khác. Mỗi tấm bằng khen, mỗi dòng ghi nhận ấy là một dấu mốc cho hành trình kết nối hai dân tộc bằng trí thức, trách nhiệm và trái tim của một người lính yêu hòa bình.
Bước ra từ cuộc chiến, người cựu chiến binh năm ấy không chỉ mang trên mình kí ức chiến tranh mà còn mang trên vai sứ mệnh gìn giữ và tiếp nối tình hữu nghị giữa hai quốc gia, hai dân tộc, ông là minh chứng cho một “tình bạn không biên giới”, một cây cầu bền bỉ nối hai dân tộc, được xây nên bằng máu, nước mắt và cả trái tim chân thành của người lính cụ Hồ năm xưa.
